Bảo Hiểm Hàng Hoá Xuất Nhập Khẩu
Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu tại Việt Nam đã được Bộ Tài chính ban hành và quy định rất rõ ràng theo bản “Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển 1990”. Quy tắc này được thành lập dựa trên điều khoản bảo hiểm do Hiệp hội bảo hiểm London ban hành ICC 1/11982. Nó bao gồm:
- Điều kiện bảo hiểm A – Institute cargo clauses A (ICC-A)
- Điều kiện bảo hiểm B – Institute cargo clauses B (ICC-B)
- Điều kiện bảo hiểm C – Institute cargo clauses C (ICC-C)
1. Khái niệm chung
1.1 Khái niệm bảo hiểm
– Bảo hiểm (Insurance): Là một cam kết bồi thường về mặt kinh tế trong đó người được hưởng bảo hiểm phải có trách nhiệm phải đóng một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm theo các điều kiện bảo hiểm đã được quy định. Ngược lại, người bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường những tổn thất của đối tượng bảo hiểm do các rủi ro được bảo hiểm gây nên.
– Người bảo hiểm (Insurer):
Là người ký kết hợp đồng bảo hiểm với người được bảo hiểm, nhận rủi ro tổn về phía mình và được hưởng một khoản phí bảo hiểm.
Người bảo hiểm là các công ty bảo hiểm như Bảo việt, Bảo minh, AIA, VINARE.
– Người được bảo hiểm (Insured)
Là người có quyền lợi bảo hiểm được một công ty bảo hiểm đảm bảo. Người có quyền lợi bảo hiểm là người mà khi có sự cố bảo hiểm xảy ra thì dẫn họ đến một tổn thất, một trách nhiệm pháp lý hay làm mất đi của họ những quyền lợi được pháp luật thừa nhận. Ví dụ, người chủ hàng là người được bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hóa.
– Ðối tượng bảo hiểm (Subject matter insured)
Là đối tượng mà vì nó người ta phải ký kết hợp đồng bảo hiểm. Ðối tượng bảo hiểm gồm 3 nhóm chính: Tài sản, con người và trách nhiệm dân sự.
– Trị giá bảo hiểm (Insurance value)
Là trị giá của tài sản và các chi phí hợp lý khác có liên quan như phí bảo hiểm, cước phí vận tải, lãi dự tính.
Trị giá bảo hiểm là khái niệm thường chỉ được dùng với bảo hiểm tài sản.
– Số tiền bảo hiểm (Sum Insured)
Là số tiền mà người được bảo hiểm kê khai và được người bảo hiểm chấp nhận.
Số tiền bảo hiểm có thể nhỏ hơn, bằng hoặc lớn hơn giá trị bảo hiểm. Nếu số tiền bảo hiểm nhỏ hơn trị giá trị bảo hiểm thì gọi là bảo hiểm dưới giá trị, bằng trị giá bảo hiểm thì gọi là bảo hiểm tới giá trị, nếu lớn hơn thì gọi là bảo hiểm trên giá trị. Khi bảo hiểm lớn hơn giá trị thì phần lớn hơn dó vẫn có thể phải nộp phí bảo hiểm nhưng không được bồi thường khi tổn thất xảy ra.
– Phí bảo hiểm (Insurance Premium)
Là một tỷ lệ phần trăm nhất định của trị giá bảo hiểm hay số tiền bảo hiểm. Phí bảo hiểm chính là khoản tiền mà người được bảo hiểm phải trả cho người bảo hiểm để đối tượng bảo hiểm của mình được bảo hiểm.
– Tỷ lệ phí bảo hiểm (Insurance rate)
Là một tỷ lệ phần trăm nhất định thường do các công ty bảo hiểm công bố. Tỷ lệ phí bảo hiểm được tính dựa vào thống kê rủi ro tổn thất trong nhiều năm. Xác suất xảy ra rủi ro càng lớn thì tỷ lệ phí bảo hiểm càng cao.
Các công ty bảo hiểm thường công bố bảng tỷ lệ phí bảo hiểm cho từng nghiệp vụ bảo hiểm.
1.2. Bản chất của bảo hiểm
Bảo hiểm ra đời là do sự tồn tại khách quan của các rủi ro nhưng bản chất của bảo hiểm chính là sự trang trải những tổn thất của những người được bảo hiểm gặp rủi ro cho tất cả những người tham gia bảo hiểm cùng chịu thông qua phí bảo hiểm . Người bảo hiểm là người trung gian đứng ra nhận lãnh tổn thất và phân chia tổn thất này cho tất cả những người tham gia bảo hiểm.
1.3. Vai trò cuả bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
Do đặc điểm của vận tải biển tác động đến sự an toàn cho hàng hoá được chuyên chở là rất lớn. Vì vậy vai trò cuả bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển càng được khẳng định rõ nét.
Vận tải đường biển thường gặp nhiều rủi ro tổn thất đối với hàng hoá do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây nên như: mắc cạn, đâm va, đắm chìm, cháy nổ, mất cắp, cướp biển, bão, lốc, sóng thần…vượt quá sự kiểm soát của con ngừoi. Hàng hoá xuất nhập khẩu chủ yếu lại được vận chuyển bằng đường biển đặc biệt ở những nước quần đảo như Anh, Singapore, Nhật, Hongkong…do đó phải tham gia bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu.
Hàng hoá xuất nhập khẩu phải vượt qua biên giới của một hay nhiều quốc gia, người xuẫt khẩu và nhập khẩu lại ở xa và thường không trực tiếp áp tải được hàng hoá trong quá trình vận chuyển do đó phải tham gia bảo hiểm cho hàng hoá. Ở đây, vai trò của bảo hiểm là người bạn đồng hành với người được bảo hiểm.
1.4. Các loại bảo hiểm vận tải hàng hóa XNK
(1) Bảo hiểm đường bộ,
(2) Bảo hiểm đường sắt,
(3) Bảo hiểm đường hàng hải,
(4) Bảo hiểm đường hàng không.
2. Điều kiện bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển
Hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển thường liên quan tới khá nhiều phía khác nhau, trong đó có bốn đối tượng chính là người bán, người mua, người vận chuyển và người bảo hiểm. Trong đó, bảo hiểm là phần khá quan trọng để phòng tránh những thất thoát, tổn hại quá lớn xảy ra bất ngờ với hàng hóa của mình trong quá trình vận chuyển.
2.1. Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển là gì?
Đây là dạng bảo hiểm với đối tượng là hàng hóa, tài sản hay vật thể được vận chuyển từ địa điểm này sang địa điểm khác bằng đường biển. Người bảo hiểm sẽ cam kết thanh toán bồi thường cho bên được bảo hiểm nếu xảy ra những thiệt hại đối với hàng hóa trong quá trình bảo hiểm.
2.2. Rủi ro trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển
Rủi ro bất ngờ xảy ra với phần hàng hóa thường được chia thành nhiều loại, nhưng chủ yếu được chia theo nguồn gốc phát sinh và theo nghiệp vụ bảo hiểm. Cụ thể của từng loại này như sau.
* Rủi ro thiên tai
– Do thiên tai: gồm những hiện tượng tự nhiên mà con người không thể nào chi phối được như: bão, gió lốc, sóng thần, biển động…
– Do tai họa của biển: những tai họa có thể xảy ra với các con tàu vận chuển ngoài biển như mắc cạn, đắm chìm, cháy nổ, mất tích…
– Do các tai nạn bất ngờ khác: các tác động ngẫu nhiên bên ngoài không thuộc những rủi ro đã nói ở trên. Các rủi ro này có thể xảy ra trong quá trình xếp dỡ hàng hóa, lưu kho… trên bộ hoặc vận chuyển trên biển.
* Rủi ro khách quan không lường trước
– Rủi ro thông thường được bảo hiểm: Gồm những rủi ro mang tính chất bất ngờ và ngẫu nhiên xảy ra ngoài mong muốn như thiên tai, tia họa từ biển, tai nạn bất ngờ…
– Rủi ro được bảo hiểm riêng: tùy theo khi thỏa thuận hợp đồng bảo hiểm mà hai bên sẽ tự thêm vào phần này chứ không được bồi thường theo các điều kiện gốc. Các dạng rủi ro này có thể là do chiến tranh, đình công, khủng bố…
– Rủi ro không được bảo hiểm: đây là các dạng rủi ro đương nhiên xảy ra do bản chất của hàng hóa hay lỗi từ phía người được bảo hiểm.
Nhìn chung thì các rủi ro được bảo hiểm phải là nguyên nhân trực tiếp tạo nên tổn thất, nếu không thì sẽ không được bảo hiểm.
2.3. Tổn thất trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển
Tổn thất thì được căn cứ theo quy mô, mức độ tổn thất hoặc theo tính chất tổn thất.
Theo quy mô, mức độ tổn thất
– Tổn thất bộ phận: thường là tổn thất về trọng lượng, số lượng, thể tích hay giá trị
– Tổn thất toàn bộ: dành cho các trường hợp đối tượng bảo hiểm bị mất mát, hư hỏng, biến chất hay biến dạng không còn như lúc đầu khi được bảo hiểm.
Theo tính chất tổn thất
– Tổn thất chung: những chi phí hay hy sinh phát sinh khi tiến hành mục đích cứu tài cũng như hàng hóa thoát khỏi một sự nguy hiểm chung
– Tổn thất riêng: dạng tổn thất này chỉ gây ra các thiệt hại cho cho một số quyền lợi của chủ hàng và chủ tàu
2.4. Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hóa XNK bằng đường biển
Điều kiện bảo hiểm quy định phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm đối với đối tượng được bảo hiểm. Bao gồm các điều kiện cụ thể như sau:
– Điều kiện bảo hiểm C
Hàng hóa hay tài sản vận chuyển sẽ được bảo hiểm trong trường hợp bị thiệt hại do:
- Cháy hay nổ
- Tàu bị mắc cạn, lật úp và đắm
- Phương tiện vận tải đường bộ bị lật hay trật bánh
- Tàu bị va chạm, đâm vào bất kỳ vật thể nào không kể nước
- Dỡ hàng ở cảng nơi tàu gặp nạn
- Hàng bị ném khỏi tàu
- Phương tiện chở hàng mất tích và khiến hàng hóa bị thất thoát
– Điều kiện bảo hiểm B
Ngoài các điều kiện như trên bảo hiểm C thì người được bảo hiểm cũng sẽ được bồi thường trong trường hợp xảy ra những rủi ra như:
- Động đất, núi lửa phun trào hay sét đánh
- Hàng bị nước cuốn khỏi tàu hay bị ném khỏi tàu
- Nơi để hàng bị nước tràn vào
- Hàng hóa tổn thất do dỡ hàng qua lan can tàu tại cảng
– Điều kiện bảo hiểm A
Thêm vào với hai phần B và C ở trên nữa là điều kiện bảo hiểm A với quyền được bồi thường nếu đối tượng bảo hiểm rơi vào một trong các trường hợp sau:
- Mất cắp, mất trộm
- Thiếu nguyên kiện
- Hen rỉ, gãy trong quá trình vận chuyển
- Rách, vỡ, bị ướt hay làm bẩn…
Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển là một sự bảo vệ toàn diện cho hàng hoá trong quá trình vận chuyển.
Theo hợp đồng vận tải người chuyên chở chỉ chịu trách nhiệm về tổn thất của hàng hoá trong một phạm vi và giới hạn nhất định. Trên vận đơn đường biển, rất nhiều rủi ro các hãng tàu loại trừ không chịu trách nhiệm, ngay cả các công ước quốc tế cũng quy định mức miễn trách nhiệm rất nhiều cho người chuyên chở. Vì vậy các nhà kinh doanh phải tham gia bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu;
Như vây, việc tham gia bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển là rất quan trọng và ngày càng khẳng định vai trò của nó trong thương mai quốc tế
Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu đã có lịch sử rất lâu đời do đó việc tham gia bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển đã trở thành một tập quán, thông lệ quốc tế trong hoạt động ngoại thương
Hàng hoá xuất nhập khẩu thường là những hàng hoá có gía trị cao, những vật tư rất quan trọng với khối lượng rất lớn nên để có thể giảm bớt thiệt hại do các rủi ro có thể xẩy ra, việc tham gia bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu trở thành một nhu cầu cần thiết;
3. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm.
3.1. Giá trị bảo hiểm.
Giá trị bảo hiểm của hàng hoá là giá trị hàng hoá tại cảng đi “C” cộng với phí bảo hiểm “I” và cước phí vận chuyển đến cảng “F” tức là bằng giá CIF. Ngoài ra để thoả mãn nhu cầu của người tham gia bảo hiểm nhằm đảm bảo quyền lợi của họ, người được bảo hiểm có thể bảo hiểm thêm cả các khoản lãi dự tính do việc xuất, nhập khẩu mang lại.
3.2. Số tiền bảo hiểm:
Số tiền bảo hiểm là số tiền đăng ký bảo hiểm được ghi trong hợp đồng bảo hiểm. Giá trị bảo hiểm là cơ sở của số tiền bảo hiểm, người tham gia có thể mua bảo hiểm bằng giá trị bảo hiểm (bảo hiểm đúng giá trị) nhỏ hơn giá trị bảo hiểm (bảo hiểm dưới giá trị) hoặc mua bảo hiểm với số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm (bảo hiểm trên giá trị).
Về nguyên tắc số tiền bảo hiểm có thể nhỏ hơn hoặc bằng giá trị bảo hiểm, nếu số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm thì phần lớn hơn thực chất chỉ là bảo hiểm phần lãi dự kiến. Ngược lại nếu số tiền bảo hiểm nhỏ hơn giá trị bảo hiểm tức là người được bảo hiểm tự bảo hiểm lấy một phần thì người bảo hiểm cũng chỉ bồi thường trong phạm vi số tiền bảo hiểm sẽ bồi thường theo tỉ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm.
Nếu đối tượng bảo hiểm được bảo hiểm trùng nghĩa là cùng một rủi ro cùng một giá trị bảo hiểm nhưng lại bảo hiểm tại nhiều công ty thì trách nhiệm của các công ty bảo hiểm cũng chỉ giới hạn trong số tiền bảo hiểm. Như vậy, số tiền bảo hiểm cùng với điều kiện bảo hiểm sẽ giới hạn trách nhiệm của các công ty bảo hiểm đối với các hợp đồng bảo hiểm.
Ví dụ về bảo hiểm trùng:
Công ty A có một kiện hàng hóa có giá trị là 100.000 USD, công ty này tiến hành mua bảo hiểm tại công ty Bảo minh chẳng hạn là 70% giá trị (tức 70.000 USD); song song đó, công ty A lại đi mua tại Prudential (hay AIA cũng được) với số tiền bảo hiểm là 70% giá trị (tức là 70.000 USD). Đương nhiên công ty A mong đợi là hai công ty bảo hiểm này không biết gì về chiêu trò này. Vậy, tổng số tiền bảo hiểm cho kiện hàng này là 140.000 USD.
Khi tàu gặp nạn, hàng hóa bị tổn thất toàn bộ. Thì công ty A cũng chỉ nhận về số tiền bồi thường là 100.000 USD (theo hình thức bảo hiểm vượt giá trị) do 2 công ty bảo hiểm sẽ tự chia số tiền bồi thường theo tỷ lệ. Vì khi một con tàu gặp nạn trên biển thì các công ty bảo hiểu đều biết và xét xem nó có thuộc phạm vi trách nhiệm của mình không. Do vậy, mặc dù công ty A phải trả nhiều phí bảo hiểm vì mua vượt giá trị nhưng số tiền bồi thường vẫn không lớn hơn giá trị (không nói đến bảo hiểm phần lãi ước tính ở đây).
3.3. Phí bảo hiểm:
Phí bảo hiểm là một khoản tiền nhỏ mà người được bảo hiểm phải trả cho người bảo hiểm để được bồi thường khi có tổn thất do các rủi ro được bảo hiểm gây ra. Thực chất phí bảo hiểm là giá cả của sản phẩm bảo hiểm.
Thông thường, tổng số tiền bảo hiểm được tính theo công thức sau:
CIF = (C+F) / (1-R)
I = CIF x R
(Trong đó, I: Phí bảo hiểm, C: Tiền hàng, F: Cước phí vận chuyển, R: Tỷ lệ phí bảo hiểm)
Tỷ lệ phí bảo hiểm phụ thuộc vào loại hàng hóa, phương thức đóng gói, phương tiện vận chuyển, tuyến đường điều kiện bảo hiểm.
CIF: là giá trị hàng hoá bao gồm cả giá trị hàng, cước phí và phí bảo hiểm.
R: là tỷ lệ Phí chính + tỷ lệ phí phụ (nếu có).
Ngoài cách tính trên, tổng số tiền phí bảo hiểm hàng hóa có thể được tính theo trị giá FOB, EX-WORKS, CFR (CNF)…
Cụ thể, công thức tính phí bảo hiểm hàng XNK các loại giá trên như sau:
– Công thức tính phí bảo hiểm theo Giá FOB (Free on Board): nếu người mua và người bán thoả thuận giao hàng theo điều kiện giá này thì trách nhiệm của người bán kết thúc khi hàng được giao qua lan can tàu. Trường hợp này thì người nhập khẩu sẽ là người mua bảo hiểm.
Người nhập khẩu mua bảo hiểm có thể tham gia theo 100% FOB hoặc 110%FOB.
– Công thức tính phí bảo hiểm theo Giá EX-Works là giá giao hàng tại xưởng (nhà máy) của người bán. Thoả thuận giao hàng theo giá này thì trách nhiệm của người bán sẽ kết thúc tại xưởng, người nhập khẩu sẽ là người mua bảo hiểm.
Người nhập khẩu mua bảo hiểm có thể tham gia bảo hiểm theo 100% trị giá EX-Works hoặc 110% trị giá EX.
– Công thức tính phí bảo hiểm theo Giá CFR (CNF): Cost and Freight: Giá này bao gồm Trị giá hàng hoá (FOB hoặc EX-Works) và cước phí. Nếu giao hàng theo giá này thì người nhập khẩu sẽ là người mua bảo hiểm.
Người nhập khẩu mua bảo hiểm có thể tham gia bảo hiểm theo 100% CFR (100% CNF) hoặc 110% CFR (110% CNF), hoặc nếu tham giá bảo hiểm theo giá CIF thì sẽ căn cứ vào CFR hoặc CNF để tính trị giá CIF.
Ví dụ 1 : Công ty VN yêu cầu bảo hiểm cho lô hàng sắt thép nhập khẩu từ cảng của Nga về cảng Việt nam ( giá C&F-HẢI PHÒNG PORT) , với giá trị lô hàng là 20 triệu USD (đã có cước vận chuyển). Hàng không xếp trong container được chở trên tàu đi biển đóng năm 2010 và yêu cầu bảo hiểm với điều kiện bảo hiểm: A (mọi rủi ro). Tính phí như sau:
– Tỷ lệ phí bảo hiểm hàng hóa R = 0,5% + 0,02% = 0,52% (trong đó tỷ lệ phí chính =0,5%, phụ phí tuyến châu Âu = 0,02%).
Theo công thức: CIF = (C+F) : (1-R)
Ta có: 20.000.000USD : (1 – 0,52%) = 20.104.543,62 USD,
Phí bảo hiểm (I) = 20.104.543,62 USD x 0,52% = 104.543,62 USD.
+ Trường hợp mua bảo hiểm 110% thì tổng số tiền bảo hiểm bằng 110%*CIF (I = CIF x R x 110%).
+ Trường hợp đề nghị điều chỉnh giá trị bảo hiểm, như điều chỉnh giá FOB, C&F, cước vận tải và điều kiện bảo hiểm thì phải tính lại số tiền bảo hiểm bằng hình thức cấp cho người mua bảo hiểm hàng hóa XNK một Giấy sửa đổi bổ sung:
+ Phần chênh lệch tăng: thanh toán thêm phí bảo hiểm hàng hóa.
+ Phân chênh lệch giảm: Công ty bảo hiểm sẽ hoàn trả phí bảo hiểm hàng hóa.
Tỉ lệ phí bảo hiểm được ghi trong hợp đồng bảo hiểm theo thoả thuận giữa người tham gia bảo hiểm và người bảo hiểm.
Ví dụ 2:
Công ty A nhập khẩu 15.000MT phân bón đóng bao DAP giá FOB (Indonesia) là 200 USD/tấn. Cước vận tải về cảng Cát Lái: 10 USD/tấn. Lô hàng được vận chuyển trên tàu STARSHIP URSA (tuổi tàu 25 tuổi). Lô hàng tham gia bảo hiểm 110%CIF Cát Lái theo điều kiện (Clause) A. Tính tổng phí bảo hiểm Công ty A phải thanh toán cho lô hàng trên.
Cách tính phí bảo hiểm hàng xuất nhập khẩu như sau:
– Tính số tiền bảo hiểm:
+ Tổng giá FOB của lô hàng: 200 USD x 15.000MT = 3,000,000 USD (C)
+ Tổng cước vận tải phải trả: 10USD x 15.000MT = 150,000 USD (F)
+ Tỷ lệ phí bảo hiểm điều kiện A, giả sử = 0,30%
+ Tỷ lệ phí = tỷ lệ phí chính + phụ phí (nếu có). Giả sử không tính phụ phí.
R = 0,30%
+ Quy đổi thành giá CIF (nếu có):
CIF = (C + F)/(1-R) = 3,150,000/0,7 = 3,160,112 USD
+ Số tiền bảo hiểm = 110% CIF = 3,160,112 x 110% = 3,476,123 USD
– Tính phí bảo hiểm:
+ Phí hàng hoá = STBH x R = 3,476,123 USD x 0,30% = 10,428.37 USD
+ Phí tàu già (tỷ lệ phí tàu 25 tuổi, hàng rời là 0,125%)
Phí bảo hiểm =3,476,123 USD x 0,125% = 4,345.15USD.
4. Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
4.1. Khái niệm và tính chất của hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm là một văn bản trong đó người bảo hiểm cam kết bồi thường cho người được bảo hiểm những mất mát, thiệt hại của đối tượng bảo hiểm do một rủi ro được bảo hiểm gây nên còn người được bảo hiểm cam kết trả phí bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm là giấy tờ có giá trị pháp lý cao, nó quy định quyền lợi và nghĩa vụ của các bên và là cơ sở quan trọng để giải quyết tranh chấp, khiếu nại sau này.
Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển mang tính chất là một hợp đồng bồi thường (contract of indemnity) và là một hợp đồng tín nhiệm (contract of good faith). Thể hiện như sau:
– Khi tổn thất xảy ra do các rủi ro được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm nhằm khôi phục lại vị thế tài chính của họ. Đây là tính chất bồi thường của hợp đồng bảo hiểm.
– Tính chất tín nhiệm thể hiện ở chỗ:
+ Phải có lợi ích bảo hiểm (Insurable interest) mới ký kết hợp đồng bảo hiểm. Lợi ích bảo hiểm không nhất thiết phải ký kết hợp đồng nhưng phải có khi xảy ra tổn thất.
+ Người được bảo hiểm phải thông báo mọi chi tiết về hàng hoá, mọi thay đổi làm tăng hoặc giảm rủi ro cho người bảo hiểm biết.
+ Khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, nếu hàng hoá đã bị tổn thất mà người được bảo hiểm đã biết thì hợp đồng bảo hiểm sẽ vô hiệu lực, ngược lại người được bảo hiểm chưa biết hợp đồng bảo hiểm.
4.2. Các loại hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm được chia làm 2 loại: hợp đồng bảo hiểm chuyến và hợp đồng bảo hiểm bao.
* Hợp đồng bảo hiểm chuyến (Voyage Policy):
Hợp đồng bảo hiểm chuyến là hợp đồng bảo hiểm cho một chuyến hàng từ một nơi này đến một nơi khác ghi trên hợp đồng bảo hiểm. Trách nhiệm của người bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm bắt đầu và kết thúc theo điều khoản “từ kho đến kho”. Hợp đồng bảo hiểm chuyến thể hiện bằng đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm do công ty bảo hiểm cấp. Đơn bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm đều có giá trị pháp lý như nhau nhưng về hình thức và cách sử dụng có khác nhau.
Nội dung của đơn bảo hiểm gồm:
– Tên, địa chỉ của người bảo hiểm và người được bảo hiểm.
– Tên hàng, số lượng, trọng lượng, số vận tải.
– Tên tàu, ngày khởi hành.
– Cảng đi, cảng đến, cảng chuyển tải.
– Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm.
– Điều kiện bảo hiểm (ghi rõ theo quy tắc nào, của nước nào).
– Tỷ lệ phí bảo hiểm, phí bảo hiểm.
– Nơi và cách thức bồi thường.
– Ngày tháng, chữ ký của công ty bảo hiểm, phương thức và địa điểm trả tiền bồi thường. Trong trường hợp nơi đến của khách hàng ghi trong đơn bảo hiểm là một địa điểm nằm sâu trong nội địa, nghĩa là sau khi đến cảng cuối cùng phải chuyển tiếp bằng phương tiện khác đến địa điểm đã định và đến đây mới hết trách nhiệm của người bảo hiểm, trong trường hợp này phải tăng thêm phụ phí bảo hiểm vì ngoài rủi ro trên đoạn đường phụ trong toàn bộ hành trình được bảo hiểm.
Để thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ, ngày ghi trên đơn bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm không được muộn hơn ngày xếp hàng lên tàu hoặc ngày nhận hàng để chở, loại tiền phải giống loại tiền trong thư tín dụng trừ khi có quy định khác.
Khi xuất trình để thanh toán, phải xuất trình trọn bộ (Full set) hoặc một bản gốc duy nhất (A sole original) cho ngân hàng.
* Hợp đồng bảo hiểm bao (còn gọi là hợp đồng bảo hiểm mở) – (Open policy, Floating policy, Open cover).
Hợp đồng bảo hiểm bao là hợp đồng bảo hiểm nhiều chuyến hàng trong một thời gian nhất định, thường là một năm. Đối với các chủ hàng có khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu lớn và ổn định, thông thường họ ký kết với công ty bảo hiểm một hợp đồng bảo hiểm bao, trong đó người bảo hiểm cam kết sẽ bảo hiểm tất cả các chuyến hàng xuất nhập khẩu trong năm.
Trong hợp đồng bảo hiểm bao hai bên chỉ thoả thuận với nhau những vấn đề chung như: tên hàng được bảo hiểm, loại tàu chở hàng, cách tính giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm tối đa cho mỗi chuyến và điều kiện bảo hiểm, cách thức thanh toán phí bảo hiểm và tiền bồi thường cấp chứng từ bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm bao có lợi ích cho cả người bảo hiểm và người được bảo hiểm. Người bảo hiểm đảm bảo thu được khoản chi phí bảo hiểm trong thời hạn bảo hiểm. Người được bảo hiểm vẫn được bồi thường nếu tàu đã bị tai nạn rồi mà chưa kịp thông báo bảo hiểm, phí bảo hiểm rẻ hơn.
Trong hợp đồng bảo hiểm bao có thể quy định một hạn ngạch của số tiền bảo hiểm (Floating policy), khi hết số tiền bảo hiểm đó hợp đồng sẽ hết hiệu lực.
Trong hợp đồng bảo hiểm bắt buộc phải có 3 điều kiện cơ bản sau:
– Điều kiện xếp hạng tàu được thuê chuyên chở hàng hoá sẽ được bảo hiểm. Tàu phải có cấp hạng cao và nếu do 10 hãng đăng kiểm nổi tiếng trên thế giới cấp mới được chấp nhận một cách tuyệt đối. Tàu có khả năng đi biển bình thường và tuổi tàu thấp hơn 15 năm.
– Điều kiện về giá trị bảo hiểm, người được bảo hiểm phải kê khai giá trị hàng theo từng chuyến về số kiện, giá CIF hoặc giá FOB, số hợp đồng mua bán, số thư tín dụng L/C, ngày mở giá trị L/C, số vận đơn B/L.
– Điều kiện về quan hệ tinh thần thiện chí nghĩa là đã mua bảo hiểm bao của người bảo hiểm nào thì trong thời gian đó không được phép mua bảo hiểm hàng hoá của người khác.
Trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm bao, mỗi lần vận chuyển hàng hoá người tham gia vận chuyển phải gửi giấy báo vận chuyển cho người bảo hiểm. Sau khi cấp đơn bảo hiểm thấy có điều gì cần phải bổ sung thì thông báo cho công ty bảo hiểm, công ty bảo hiểm sẽ cấp giấy bảo hiểm bổ sung, giấy này có giá trị bằng đơn bảo hiểm và không thể tách rời khỏi đơn bảo hiểm.
Ví dụ về bảo hiểm trùng:
Công ty A có một kiện hàng hóa có giá trị là 100.000 USD, công ty này tiến hành mua bảo hiểm tại công ty Bảo minh chẳng hạn là 70% giá trị (tức 70.000 USD); song song đó, công ty A lại đi mua tại Prudential (hay AIA cũng được) với số tiền bảo hiểm là 70% giá trị (tức là 70.000 USD). Đương nhiên công ty A mong đợi là hai công ty bảo hiểm này không biết gì về chiêu trò này. Vậy, tổng số tiền bảo hiểm cho kiện hàng này là 140.000 USD.
Khi tàu gặp nạn, hàng hóa bị tổn thất toàn bộ. Thì công ty A cũng chỉ nhận về số tiền bồi thường là 100.000 USD (theo hình thức bảo hiểm vượt giá trị) do 2 công ty bảo hiểm sẽ tự chia số tiền bồi thường theo tỷ lệ. Vì khi một con tàu gặp nạn trên biển thì các công ty bảo hiểu đều biết và xét xem nó có thuộc phạm vi trách nhiệm của mình không. Do vậy, mặc dù công ty A phải trả nhiều phí bảo hiểm vì mua vượt giá trị nhưng số tiền bồi thường vẫn không lớn hơn giá trị (không nói đến bảo hiểm phần lãi ước tính ở đây).
5. Công tác giám định – bồi thường tổn thất:
5.1. Công tác giám định tổn thất
Giám định tổn thất là việc làm của các chuyên viên giám định, của người bảo hiểm hoặc của các Công ty giám định được người bảo hiểm uỷ quyền nhằm xác định mức độ và nguyên nhân của tổn thất, làm cơ sở cho việc bồi thường. Giám định tổn thất được tiến hành khi hàng hoá bị hư hỏng, đổ vỡ, thiếu hụt, giảm phẩm chất, thối… Ở cảng đến hoặc tại cảng dọc đường và do người được bảo hiểm yêu cầu. Những tổn thất như do tầu đắm, hàng mất, giao thiếu hàng hoặc không giao thì cũng không cần phải giám định và cũng không thể giám định được.
Mục đích của giám định tổn thất là:
– Xác định loại tổn thất, nguyên nhân gây ra tổn thất cho hàng hoá.
Giám định giúp xác rõ loại tổn thất là do hư hỏng, đổ vỡ, thiếu hụt hay ẩm mốc… Nguyên nhân tổn thất có nhiều loại, có thể do bốc xếp cẩu thả, do đâm va, bão lụt, do thông giờ không tốt, do bản thân hàng bị ẩm ướt…
– Xác định trách nhiệm tổn thất thuộc về ai.
Giám định chính xác, trung thực kết quả nói lên người phải chịu trách nhiệm và bồi thường tổn thất cho hàng hoá, khiến họ không thể từ chối trách nhiệm của mình. Đó có thể là người mua, người bán, người vận tải, người bảo hiểm hoặc cơ quan giao nhận cảng.
– Giám định tổn thất là cơ sở tiến hành khiếu nại đòi bồi thường và giải quyết khiếu nại.
Yêu cầu của công tác giám định tổn thất phải:
– Kịp thời đầy đủ, trung thực và kết quả nhằm xác định chính xác nguyên nhân tổn thất.
– Bám sát hiện trường để phản ánh được cụ thể tình hình tổn thất của tài sản bảo hiểm.
– Có ý kiến tham gia với người nhận hàng trong các khâu: cứu chữa, xử lý hàng hư hỏng, để phòng và giảm nhẹ tổn thất, bốc dỡ giao nhận, yêu cầu về bao bì hàng hoá khiếu nại người thứ ba có trách nhiệm đối với hàng hoá tổn thất.
5.2. Công tác bồi thường tổn thất.
Sau khi lập được biên bản giám định, người bảo hiểm tiến hành giám định bồi thường. Đây là công đoạn rất quan trọng và nhạy cảm vì nó gắn liền với lợi ích của cả người được bảo hiểm và người bảo hiểm vì vậy việc giám định bồi thường phải đáp ứng được một số nguyên tắc sau.
– Nhanh chóng, kịp thời: để giúp khách hàng nhanh chóng khôi phục hoạt động kinh doanh một cách hiệu quả nhất.
– Kết quả chính xác: Phải tuân theo những điều kiện, điều khoản của hợp đồng bảo hiểm và thực tế thiệt hại.
– Công bằng, trung thực: Phải dựa trên tình huống tai nạn, quan hệ hợp tác mà giám định bồi thường linh hoạt, thoả mãn những yêu cầu hợp lý của khách hàng.
Ngoài ra, trong quá trình giám định cần đảm bảo một số yêu cầu sau:
– Tờ trình bồi thường phải thực hiện đầy đủ chi tiết về khiếu nại, nguyên nhân phạm vi tổn thất, số tiền khiếu nại và số tiền bồi thường cùng ý kiến nhận xét của cán bộ thường về toàn bộ khiếu nại.
– Trong trường hợp mỗi Công ty tính toán tổn thất đánh giá khiếu nại thì hai biên bản giám định của Công ty tính toán tổn thất sẽ là cơ sở cho việc giải quyết bồi thường.
Nguồn: tổng hợp Internet